Cai quản Trấn Hải và Trấn Đông Tiền_Lưu

Tượng Tiền Lưu gần Thái Hồ và Tiền vương từ

Sau khi Tiền Lưu giết chết Đổng Xương, Đường Chiêu Tông ban cho Tiền Lưu thêm chức Trung thư lệnh, song trong một khoảng thời gian không chính thức xác nhận việc Tiền Lưu tiếp quản Uy Thắng. Thay vào đó, Đường Chiêu Tông bổ nhiệm Môn hạ thị lang Vương Đoàn (王摶) làm Uy Thắng tiết độ sứ. Tuy nhiên, Tiền Lưu đã lệnh cho dân chúng và quan lại Lưỡng Chiết (Trấn Hải quân và Uy Thắng quân) thượng biểu thỉnh Tiền Lưu được kiêm lĩnh Chiết Đông (tức Uy Thắng). Đường Chiêu Tông bất đắc dĩ phải triệu hồi Vương Đoàn, cho Tiền Lưu làm tiết độ sứ của cả Trấn Hải và Uy Thắng (sau đổi là Trấn Đông).[18]

Mặc dù Đổng Xương đã bị tiêu diệt, song chiến tranh giữa Tiền Lưu và Dương Hành Mật vẫn tiếp diễn, hai bên tranh giành các thành của đối phương trong vài năm sau đó. Quân Tiền Lưu chiếm được Hồ châu[chú 9] từ tay một chư hầu của Dương Hành Mật là Lý Ngạn Huy (李彥徽) vào năm 897 và tái chiếm Tô châu từ tay Tần Bùi (秦裴) vào năm 898, trong khi thuộc hạ của Điền Quân là Khang Nho (康儒) chiếm được Vụ châu[chú 10] từ tay một chư hầu danh nghĩa của Tiền Lưu là Vương Đàn (王檀) vào năm 899.[20] Năm 901, Đường Chiêu Tông đã ban chức Thị trung cho Tiền Lưu.[21] Cũng trong năm này, Thủy Khâu thị qua đời.[2]

Vào mùa thu năm 901, Dương Hành Mật tin vào lời đồn đại rằng Tiền Lưu đã bị ám sát nên đã phái Lý Thần Phúc (李神福) đi đánh Hàng châu, tận dụng thời cơ có khoảng trống quyền lực. Tiền Lưu đã phái Cố Toàn Vũ đi chống lại, song Cố Toàn Vũ lại xem nhẹ Lý Thần Phúc nên đã bại trận và bị bắt. Lý Thần Phúc bao vây Lâm An, song sau đó sớm nhận ra rằng tin đồn về việc Tiền Lưu đã qua đời là không đúng. Lý Thần Phúc không thể nhanh chóng chiếm được Lâm An trong khi lại lo ngại rằng Tiền Lưu có thể phản kích, vì thế liền thể hiện thiện chí bằng việc bảo vệ khu mộ gia tộc của Tiền Lưu và cho phép Cố Toàn Vũ (là người được Tiền Lưu xem trọng) được viết thư về, ngoài ra còn giả bộ như có một đội quân tiếp viện Hoài Nam hùng hậu đang trên đường đến. Tiền Lưu do đó đã cầu hòa và cung cấp một khoản tiền khao quân, Lý Thần Phúc chấp thuận và triệt thoái.[21] Năm 902, hai bên thiết lập hòa bình, Cố Toàn Vũ được trao trả lại cho Tiền Lưu để đổi lấy Tần Bùi. Cũng trong năm đó, Đường Chiêu Tông thăng tước hiệu của Tiền Lưu thành Việt vương.[22]

Vào mùa thu năm 902, Tiền Lưu phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng nhất kể từ khi ông nắm quyền cai trị hai quân. Khi ông về thăm quê tại Lâm An, nơi mà ông đã nâng địa vị thành Y Cẩm quân (衣錦軍), ông đã lệnh cho Hữu đô chỉ huy sứ Từ Oản (徐綰) và binh sĩ của Từ Oản nạo vét một con kênh, song họ lại than phiền vì phải thực hiện nhiệm vụ này; bất chấp lời khuyên của tiết độ phó sứ Thành Cập, Tiền Lưu vẫn không hủy bỏ việc nạo vét kênh. Trong lúc Tiền Lưu ở tại Y Cẩm, Từ Oản và Hứa Tái Tư (許再思) phát động một cuộc binh biến và cố gắng chiếm cứ Hàng châu- khi ấy đang do nhi tử của Tiền Lưu là Tiền Truyền Anh (錢傳瑛) và Mã Xước (馬綽) trấn thủ. Quân của Từ và Hứa chiếm được thành ngoài, song Tiền Truyền Anh và Mã Xước cố thủ tại nha thành. Tiền Lưu khi hay tin về cuộc binh biến đã phải vội vã trở về Hàng châu và khá khó khăn mới vào được nha thành. Do nha thành tiếp tục bị bao vây, có một số đề xuất rằng Tiền Lưu nên chạy đến Việt châu- thủ phủ của Trấn Đông, song Tiền Lưu vẫn ở lại Hàng châu sau nghe được lời khuyên từ Đỗ Kiến Huy (杜建徽)- nhi tử của Đỗ Lăng.[22]

Tuy nhiên, Tiền Lưu lại lo rằng Từ Oản và Hứa Tái Tư sẽ chuyển sang chiếm Việt châu, và ông đã chuẩn bị phái Cố Toàn Vũ đến trấn thủ Việt châu. Tuy nhiên, Cố Toàn Vũ lại cho rằng Từ Oản và Hứa Tái Tư sau khi không thể nhanh chóng đoạt được Hàng châu thì chắc chắn sẽ cầu viện Điền Quân, và ông nên cố gắng đảm bảo rằng Dương Hành Mật sẽ không đồng ý cứu viện. Nghe theo lời của Cố Toàn Vũ, Tiền Lưu đã phái nhi tử là Tiền Truyền Liệu (錢傳璙) tháp tùng Cố Toàn Vũ đến Hoài Nam (nhằm để Tiền Truyền Liệu làm con tin), yêu cầu Dương Hành Mật ngăn chặn một cuộc tiến công tiềm tàng từ phía Điền Quân.[22]

Sau khi Cố Toàn Vũ và Tiền Truyền Liệu khởi hành đi đến thủ phủ Quảng Lăng (廣陵) của Hoài Nam quân, đúng như dự tính của Cố Toàn Vũ, Từ Oản và Hứa Tái Tư đã cầu viện Điền Quân. Điền Quân đem quân đến trợ giúp việc bao vây thành, trong khi đề xuất cho Tiền Lưu một hành lang an toàn đến Việt châu nếu ông chịu từ bỏ Hàng châu, song Tiền Lưu từ chối đề xuất này. Cố Toàn Vũ và Tiền Truyền Liệu đến Quảng Lăng, thuyết phục Dương Hành Mật rằng nếu Điền Quân chiếm được Hàng châu thì quyền lực của người này sẽ tăng lên và sẽ không còn phụ thuộc vào Dương Hành Mật nữa. Dương Hành Mật giữ Tiền Truyền Liệu tại Quảng Lăng và gả một nữ nhi cho Truyền Liệu, sau đó chấp thuận triệu hồi Điền Quân. Vì thế, sau khi được Tiền Lưu cống nạp tiền bạc và giao nhi tử là Tiền Truyền Quán làm con tin, Điền Quân triệt thoái (và gả một nữ nhi của mình cho Truyền Quán). Từ Oản và Hứa Tái Tư theo Điền Quân trở về Ninh Quốc.[22]

Năm 903, Điền Quân cùng với An Nhân Nghĩa nổi dậy chống Dương Hành Mật, Dương Hành Mật phái Lý Thần Phúc đi giao chiến với Điền Quân, Lý Thần Phúc bắt được Từ Oản. Dương Hành Mật lệnh giải Từ Oản đến cho Tiền Lưu, Tiền Lưu cho cắt quả tim của Từ Oản để tế Cao Vị (高渭)- một chỉ huy tử chiến trong cuộc binh biến của Từ Oản và Hứa Tái Tư. Do Điền Quân và An Nhân Nghĩa đều có số quân sĩ đáng kể, Dương Hành Mật đã phải cầu viện Tiền Lưu, Tiền Lưu đã phái Phương Vĩ Trân (方永珍) đi giúp đánh Nhuận châu- căn cứ của An Nhân Nghĩa, phái em họ là Tiền Dật (錢鎰) đi giúp đánh Tuyên châu, và phái Dương Tập (楊習) đi đánh Mục châu[chú 11] do thứ sử châu này là Trần Tuân (陳詢) nổi dậy chống Tiền Lưu. Khoảng tết năm 904, Đài Mông đã giết chết Điền Quân, Dương Hành Mật đoạt lại Ninh Quốc, Tiền Truyền Quán an toàn trở về Hàng châu. Dương Hành Mật cũng cho Tiền Truyền Liệu và thê tử (con của Dương Hành Mật) về Hàng châu. Trong khi đó, Tiền Lưu thượng biểu cho triều đình để xin được thụ phong tước Ngô Việt vương, song triều đình Đường từ chối. Tuy nhiên, Tuyên Vũ[chú 12] tiết độ sứ Chu Toàn Trung (là người đang kiểm soát triều đình Đường) là một đồng minh của Tiền Lưu, theo thỉnh cầu của Chu Toàn Trung, Tiền Lưu được phong tước Ngô vương (một tước hiệu mà Dương Hành Mật cũng nắm giữ).[23]

Tuy nhiên, Mục châu vẫn nằm ngoài tầm kiểm soát của Tiền Lưu, và đến cuối năm 904, sau khi Tiền Lưu phái Diệp Nhượng (葉讓) đi ám sát Trần Chương (陳璋)- Cù châu[chú 13] thứ sử,[24] là người khiến Tiền Lưu bực tức do tiếp nhận một người có liên đới với Từ Oản là Trương Hồng (張洪),[22] Trần Chương quay sang quy phục Dương Hành Mật. Trong khi đó, Dương Hành Mật phái Đào Nha (陶雅) đi tiếp viện cho Trần Tuân. Đào Nha đã đánh bại Tiền Dật, Cố Toàn Vũ, và Vương Cầu (王球), bắt được Tiền Dật và Vương Cầu. Sau đó, Đào Nha tiếp tục tiến công Vụ châu, Tiền Lưu phái Tiền Phiêu và Phương Vĩnh Trân đi giải vây cho Vụ châu. Tuy nhiên, sau khi Dương Hành Mật qua đời vào năm 905 và Dương Ác kế tập, do Dương Ác tranh chấp với Tuyên châu quan sát sứ Vương Mậu Chương, Vương Mậu Chương bỏ Tuyên châu và chạy sang với Tiền Lưu. Lo ngại rằng Vương Mậu Chương sẽ cắt đứt đường thoái lui của mình, Đào Nha đã triệt thoái, Tiền Lưu giành lại được Mục châu và Cù châu.[24]

Năm 907, Tiền Lưu phái Tiền Truyền Liệu và Tiền Truyền Quán đi đánh Ôn châu[chú 14] và Xử châu[chú 15], hai châu này thuộc về Trấn Đông quân song được cai quản độc lập dưới quyền huynh đệ Lô Cát (盧佶) và Lô Ước (盧約). Tiền Truyền Liệu và Tiền Truyền Quán nhanh chóng đánh bại và giết chết Lô Cát, Lô Ước sau đó đầu hàng, Tiền Lưu đoạt lấy quyền kiểm soát Ôn châu và Xử châu.[25]